HẠ TẦNG CẢNH QUAN ĐỊNH HÌNH ĐÔ THỊ

25/02/2025 Lượt xem : 53

CẢNH QUAN KHÔNG CHỈ LÀ NHỮNG MẢNG XANH THUẦN TÚY
Vườn đô thị: Tạo một không gian giao tiếp và một xã hội thu nhỏ biết thỏa hiệp
Sinh viên Kiến trúc Cảnh quan Trường Đại học Xây dựng Hà Nội tham quan thực tế tại Tập đoàn Triệu Điền: Hành trình khám phá cây xanh và không gian xanh
Bảo vệ Luận án Tiến sĩ cấp trường của Nghiên cứu sinh Phùng Thị Mỹ Hạnh
THÔNG CÁO BÁO CHÍ HỘI NGHỊ VÀ TRIỂN LÃM THÀNH TỰU CHI HỘI KIẾN TRÚC SƯ CẢNH QUAN VIỆT NAM

 

Tóm tắt:  Những năm gần đây, tình trạng đô thị hóa một cách không kiểm soát làm cho hình thái và đặc trưng cảnh quan đô thị dần bị che lấp, xâm lấn và thất thoát. Trong công tác quy hoạch đô thị, sự kết hợp giữa sinh thái và hạ tầng chưa được coi trọng; những giải pháp hạ tầng đô thị hiện đại càng làm cho các đô thị biến đổi, vừa đánh mất dần bản sắc vừa trở nên đơn điệu. Áp lực đô thị hóa còn là nguyên nhân của biến đổi khí hậu (BĐKH) và đô thị là nơi gánh chịu nặng nề hậu quả của BĐKH. Dựa trên nghiên cứu tổng quan về Hạ tầng cảnh quan - xu hướng tiếp cận mới trên cơ sở kế thừa các giải pháp dựa vào thiên nhiên, trong đó xem xét sự bảo toàn và tăng cường kết nối mang tính mạng lưới của hệ thống cây xanh, mặt nước và hạ tầng đô thị - đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới, bài báo tập trung làm rõ vai trò và hiệu quả của Hạ tầng cảnh quan trong việc kiến tạo nơi chốn, định hình hình thái đô thị và thích ứng với BĐKH thông qua khả năng kết hợp hài hòa giữa cấu trúc sinh thái tự nhiên và hạ tầng đô thị trên cơ sở ba nhân tố Hạ tầng cảnh quan cốt lõi gồm: Hạ tầng cảnh quan xanh, Hạ tầng cảnh quan nước và Hạ tầng kỹ thuật đô thị.

  1. Bối cảnh và những nhân tố báo hiệu sự ra đời của Hạ tầng cảnh quan

1.1 Bối cảnh đô thị hóa trên thế giới

Theo Zhifeng Liu và cộng sự [1], đô thị hóa đã tăng tốc trên toàn thế giới trong vài thập kỷ qua, Từ năm 2010 đến năm 2050, tỷ lệ dân số đô thị ước tính sẽ tăng từ 51,6% lên 67,2% trên toàn thế giới trong khi diện tích xây dựng sẽ tăng gấp 3 lần. Trong quá trình đô thị hóa, các khu vực rộng lớn của môi trường sống tự nhiên đã bị chuyển đổi thành các bề mặt không thấm nước, bên cạnh đó, sự phát triển của đường bộ, đường sắt và các bề mặt không thấm nước khác dẫn đến sự phân mảnh môi trường nghiêm trọng. Kịch bản trong 5 đến 25 năm tới [2] cho thấy khoảng 25% cảnh quan thiên nhiên còn lại bị xóa bỏ, có tới 30% diện tích môi trường sống cốt lõi bị mất, độ phức tạp của hình dạng cảnh quan tăng lên và số lượng các mảng môi trường sống tự nhiên tăng gấp bốn đến chín lần,sự gia tăng phân mảnh này xảy ra do có sự thay đổi về sử dụng đất.  Theo Triển vọng đô thị hóa thế giới [3], vào năm 2011, Châu Á là nơi sinh sống của khoảng một nửa dân số đô thị trên thế giới và đến giữa thế kỷ XXI, hầu hết dân số đô thị trên thế giới sẽ tập trung ở Châu Á (53 phần trăm), sẽ gây nhiều áp lực đến việc duy trì và phát huy bản sắc hình thái đô thị và vấn đề bảo vệ thiên nhiên khu vực.

Tại Việt Nam, theo PGS, TS. Vũ Trọng Lâm và cộng sự [4],  tỷ lệ đô thị hóa cả nước tăng từ 30,5% năm 2010 lên đến 38,4% năm 2019. Với xu hướng chung là phát triển nhanh trên cơ sở mở rộng cả về quy mô diện tích đất đai lẫn quy mô dân số về vùng ngoại vi dẫn đến việc phải điều chỉnh ranh giới của đô thị, sáp nhập các đơn vị hành chính trong ranh giới của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hoặc có liên quan đến ranh giới của hai, ba tỉnh, thành phố.  Những khu vực đô thị hóa nhanh đều có hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển, kết nối hạ tầng giữa các đô thị và giữa đô thị trung tâm với các khu đô thị mới mở rộng, giữa đô thị với các vùng nông thôn còn nhiều yếu kém, tỷ lệ đất giao thông trong các đô thị còn thấp, hầu hết đạt dưới 10% đất xây dựng đô thị; nguồn nước đã và đang bị suy thoái cả về chất lượng và trữ lượng trong khi việc đầu tư phát triển hệ thống cấp nước sinh hoạt chưa đáp ứng nhu cầu người dân, phạm vi bao phủ dịch vụ cấp nước còn thấp. Nhiều khu đô thị mới thiếu cây xanh, công viên, mặt nước; kiến trúc khu vực đô thị còn lộn xộn, thiếu bản sắc theo vùng, miền.

1.2 Hạ tầng đô thị và những thách thức

Theo Ayda Alehashemi và cộng sự [5], ban đầu, thuật ngữ Hạ tầng đề cập đến các cấu trúc và cơ sở vật chất và tổ chức cơ bản (ví dụ: tòa nhà, đường sá, nguồn điện) cần thiết cho hoạt động của một xã hội hoặc doanh nghiệp, bắt đầu với mạng lưới giao thông - bước tiến lớn đầu tiên trong việc cải thiện mạng lưới này - được thực hiện vào cuối những năm 1600 và đầu những năm 1800, là các công trình kênh đào đầy tham vọng thay thế các con sông trong và ngoài thành phố. Trong khi đó, các hệ thống nước và cống rãnh được mở rộng và cải thiện rất nhiều. Nhờ sự phát triển của công nghệ, các hệ thống cơ sở hạ tầng mới đã xuất hiện (Bảng 1).

Bảng 1: Các hệ thống cơ sở hạ tầng mới (Nguồn [1])

STT

Hạ tầng

Thời điểm xuất hiện

1

Kênh đào

1600-1700, Pháp

2

Đường sắt

1800-1830, Anh

3

Hệ thống thoát nước

1800-1870, Pháp

4

Mạng lưới điện và điện thoại

1870-1890, Mỹ

5

Hạ tầng mạng

1990-2000, Mỹ

Thiết kế cơ sở hạ tầng nổi lên như một cách quan trọng để định hướng quá trình đô thị hóa. Mặc dù thường thành công về mặt địa chính trị và kinh tế, xu hướng thiết kế hạ tầng cho "mục đích duy nhất" thường dẫn đến cảnh quan bị phá vỡ, các công trình và tòa nhà được cải tạo làm xấu đi, và xóa bỏ các giá trị văn hóa và thiên nhiên.

Bảng 2:  Các yếu tố ảnh hưởng đến cách tiếp cận và tư duy khi đưa ra định nghĩa mới về cơ sở hạ tầng trong thế kỷ 21 (Nguồn[1]).

STT

Bối cảnh

Thách thức

1

Sự phát triển đơn chiều trong cơ sở hạ tầng hiện đại gây ra mất mát diện tích tự nhiên, phân mảnh không gian mở, suy thoái tài nguyên nước, giảm khả năng ứng phó và thích nghi với những thay đổi của thiên nhiên và tăng nguy cơ lũ lụt và thiên tai.

Khủng hoảng sinh thái và môi trường

2

Các cuộc khủng hoảng lớn và nhỏ từ sự cố cầu, đập, đường sá và nhà máy điện hạt nhân đến lũ lụt ven biển, mất điện, thiếu nước, mạng lưới thoát nước xuống cấp, chi phí bảo trì cao và bất thường là những thách thức lớn đối với hạ tầng đô thị.

Sự cố cơ sở hạ tầng khi đối mặt với các khu phức hợp sinh thái và môi trường mới

3

Xem xét các vấn đề sinh thái từ những năm 1960 trong các lĩnh vực khác nhau liên quan đến thành phố, dựa vào những tiến bộ trong khoa học và công nghệ, mang đến một khía cạnh mới trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên và ở cấp độ cao hơn là giữa thành phố và thiên nhiên, đặc biệt là trong các vấn đề về tính bền vững.

Các mô hình khoa học mới trong mối quan hệ giữa con người, thành phố và thiên nhiên

4

Vào cuối thế kỷ 20, quá trình phi công nghiệp hóa ngoài sự phát triển đô thị đã thay đổi diện mạo của các thành phố hậu công nghiệp. Trong thời gian này, quá trình phi công nghiệp hóa và sự hình thành các nền kinh tế đô thị mới - chẳng hạn như bãi bỏ quy định thương mại, gia công sản phẩm, sản xuất tự động, nghiên cứu y sinh và giao hàng đúng lúc - dựa trên các luồng toàn cầu hóa mới trong các xã hội phát triển báo hiệu sự thay đổi đáng kể về mặt cấu trúc trong quá trình đô thị hóa.

Phi công nghiệp hóa và sự xuất hiện của các phương pháp kinh tế đô thị và toàn cầu mới cũng như các cách thức đô thị hóa mới

  1. Những nhân tố báo hiệu sự ra đời của Hạ tầng cảnh quan

2.1 Các giải pháp cải tiến Hạ tầng đô thị

Đô thị hóa, khủng hoảng sinh thái và biến đổi khí hậu là một số thách thức đương đại của xã hội chúng ta. Hạ tầng đô thị là bối cảnh ấn tượng nhất đối với sự phát triển của các thành phố hiện đại vẫn đang hoạt động theo nguyên tắc trong kỷ nguyên công nghiệp đòi hỏi phải xem xét lại cơ bản quy hoạch và thiết kế cảnh quan, đặc biệt là liên quan đến các vấn đề môi trường và tính bền vững.

Trong hai thập kỷ qua, các chuyên gia về công nghệ và sinh thái đô thị đã chỉ trích các định nghĩa cổ điển về cơ sở hạ tầng và tìm hiểu cách suy nghĩ mới trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, phù hợp hơn với các xã hội hậu công nghiệp [1].

Hệ thống thoát nước đô thị phù hợp (SUDS) ngày càng thay thế các hệ thống đường ống truyền thống là giải pháp thoát nước được ưa chuộng, sao chép, càng giống càng tốt, hệ thống thoát nước tự nhiên [6]. Tuy nhiên, việc triển khai SUDS thường được sử dụng với mục đích duy nhất là giảm thiểu tác động của “cảnh quan xấu” thay vì cải thiện sự tương tác giữa chu trình nước đô thị với quy hoạch và cảnh quan thành phố. Sau đó, lý thuyết Thiết kế đô thị nhạy cảm với nước (WSUD) giảm thiểu tác động môi trường do việc bịt kín đất trong cảnh quan mới và cải tạo [7]. Theo Martijn K và cộng sự [8], WSUD cũng chính là Hạ tầng xanh nước- xanh lá (GBI) kết nối các chức năng thủy văn đô thị (cơ sở hạ tầng màu xanh lam) với các hệ thống thảm thực vật (cơ sở hạ tầng xanh lá cây) trong thiết kế cảnh quan đô thị. Màu “Xanh lam” thể hiện tầm quan trọng của các đặc tính vật lý của nước, trong khi “Xanh lá cây” kết nối các chức năng thủy văn đô thị với các hệ thống thảm thực vật trong thiết kế cảnh quan đô thị  [9]. Những nguyên tắc ứng dụng SUDS, WSUD, LID, GBI chưa phải là Quy định mang tính bắt buộc mà được mỗi chính quyền địa phương lựa chọn áp dụng ở nhiều mức độ và thường được triển khai ở quy mô nhỏ.

Bảng 3: Các lý thuyết nhằm cải thiện Hạ tầng đô thị (Nguồn tác giả)

STT

Lý thuyết

Nội dung

Nguồn

1

Hệ thống thoát nước bền vững: (Sustainable Urban Drainage Systems, SUDS)

Cung cấp giải pháp thay thế cho việc dẫn nước mặt trực tiếp qua mạng lưới đường ống và cống rãnh đến các nguồn nước gần đó

CIRIA, 2007 [6]

2

Phát triển tác động thấp (Low-Impact Development, LID)

Nhấn mạnh việc sử dụng các tính chất thoát nước tự nhiên quy mô nhỏ được tích hợp trên toàn khu vực để làm chậm và giảm dòng chảy và khôi phục sự xâm nhập và thoát hơi nước ở các khu vực đô thị. Do đó, những ứng dụng thực tiễn của nguyên lý đã giảm thiểu các tác động bất lợi của quá trình đô thị hóa như lũ quét, hạn hán và suy thoái chất lượng nước. LID tại Mỹ được xem là việc triển khai GI tại một khu vực cụ thể.

EPA, 2012 [10]

3

Đô thị nhạy cảm với nước  (water-sensitive urban design WSUD)

BGI cũng chính là Thiết kế đô thị nhạy cảm với nước tại Úc

Martijn Kuller, 2021,[7]

4

Hạ tầng xanh Blue Green infrastruture

là một mạng lưới không gian xanh được kết nối với nhau nhằm bảo tồn các giá trị và chức năng của hệ sinh thái tự nhiên, đồng thời cung cấp các lợi ích liên quan cho con người. Blue Green Infrastructure kết nối chức năng thủy văn đô thị (hạ tầng xanh lam) với hệ thống thảm thực vật (hạ tầng xanh lá) trong thiết kế cảnh quan đô thị. Màu “Xanh lam” ghi nhận tầm quan trọng của tính chất vật lý của nước, trong khi “Xanh lá cây” kết nối các chức năng thủy văn đô thị với hệ thống thảm thực vật trong thiết kế cảnh quan đô thị.

Mark A. Benedict and Edward T. McMahon, 2002, [9, 11] , Liveable City Lab năm 2016 [9

2.2 Các tiếp cận sinh thái đô thị

Bên cạnh những ý kiến chỉ trích tính cứng nhắc và đơn chức năng của hạ tầng đô thị, cũng có những lập luận về việc quay trở lại mối quan hệ biểu tượng và sinh thái giữa các hệ sinh thái tự nhiên và tận dụng kinh nghiệm của cơ sở hạ tầng tiền công nghiệp. Theo Richard T. T. Forman [12], Nguyễn An Thịnh [13], Robert A và cộng sự [14]: Cảnh quan được cấu tạo bởi 4 yếu tố là mảnh rời rạc (patch), được kết nối với nhau bởi hành lang (corridor), được bao bọc bởi thể nền (matrix) và tổ hợp cảnh quan với nhiều mảnh rời rạc khác nhau tạo nên thể khảm (mosaic) với sự đa dạng về địa mạo, thổ nhưỡng, thảm thực vật,....

Hình 1: Sự thay đổi cấu trúc-chức năng của khảm đất (Nguồn  [12])

Các quá trình cảnh quan đề cập đến các dòng chảy, chuyển động và tương tác của gió, nước, động vật, con người và giao thông. Sự thay đổi trong mô hình cấu trúc (và chức năng) theo thời gian, như trong một bức tranh khảm đang thay đổi. Trên thực tế, cải thiện cách thức hoạt động của một khu vực là thay đổi các mảng hoặc hành lang theo một cách nào đó. Hành lang có thể tồn tại đơn lẻ nhưng phổ biến hơn là các hành lang được kết nối tạo thành một mạng lưới, ví dụ mạng lưới đường bộ, mạng lưới suối, mạng lưới hàng rào, mạng lưới đường mòn và mạng lưới đường ống,.. tất cả đều hoạt động như các hệ thống, với các luồng từ nút (nút giao) này đến nút khác dọc theo hành lang của chúng.

Các quá trình trong khu vực thành thị thực chất là các dòng chảy, chuyển động và vận chuyển trong không gian. Có bốn loại dòng chảy và chuyển động cơ bản đặc biệt quan trọng trong đô thị: (1) dòng không khí; (2) dòng nước chảy; (3) tự vận động; và (4) chuyển động bằng động cơ sử dụng năng lượng bên ngoài. Những dòng này mang hoặc vận chuyển năng lượng, vật liệu và đồ vật.

Hình 2: Số lượng và chất lượng nước sông khu vực đô thị: Lượng nước chảy vào sông giảm khi mất đất nông nghiệp và tăng khi mở rộng đô thị hóa (Nguồn [12])

2.3 Triết lý Phong thủy

Theo Sun-Kee Hong và cộng sự [15], người phương Đông cổ đại đã xác định các vị trí và mô hình không gian cảnh quan tối ưu hoặc gần tối ưu phù hợp với truyền thống văn hóa, tôn giáo, cấu trúc xã hội, kinh tế, chính trị và các đặc điểm sinh lý nhằm mục đích an toàn và thịnh vượng của con người. Theo đó, các điều kiện sinh thái lành mạnh với năng lượng cao (ví dụ: đất đai màu mỡ, không khí trong lành, nước sạch, gỗ) đến từ sự sắp xếp không gian tối ưu và sự kết nối của hai yếu tố này. Thông qua trực quan hóa địa hình và đánh giá đất đai, có thể xác định được các vị trí có sức sống (hoặc năng lượng sống, dòng năng lượng tối ưu) được gọi là Khí. Việc tối đa hóa Khí phụ thuộc vào các dòng năng lượng, vật chất, chủng loại và thông tin tích cực cũng như sự tương tác hài hòa giữa núi và suối, hai yếu tố của Phong Thủy. Một sự tương tự để tìm ra sức sống tối ưu là tìm kiếm sự phù hợp của đất đai trong đánh giá đất đai. Sự sắp xếp không gian và sự kết nối của núi và suối có thể ảnh hưởng đáng kể đến chức năng sinh thái của cảnh quan. Chức năng của cảnh quan bị suy thoái hoặc kém hiệu quả có thể được tăng cường bằng cách bổ sung thêm các yếu tố cảnh quan mới. Do đó, những ý tưởng và phương pháp trong Phong thủy có thể liên quan đến việc phục hồi sinh thái cũng như quy hoạch đô thị sinh thái liên quan đến mô hình cảnh quan, hoạt động của con người và tính toàn vẹn sinh thái của hệ thống đô thị.

Là một lý thuyết không gian, các nguyên tắc của Phong Thủy tương tự như các khái niệm về mạng lưới và khảm cảnh quan. Núi, suối, khu dân cư, khối đô thị đều là yếu tố cảnh quan. Bản đồ nhận thức về các kiểu cảnh quan được thiết kế hoặc quy hoạch theo lý thuyết Phong thủy tích hợp các khía cạnh sinh lý, sinh thái và văn hóa. Kích thước, hình dạng, hướng, sự sắp xếp không gian và sự kết nối của các mảng trong ma trận cảnh quan có thể ảnh hưởng đến khí hậu, điều kiện đất đai, đa dạng sinh học và chức năng hệ sinh thái. Thảm thực vật tự nhiên và mạng lưới sông suối bảo vệ các khu dân cư trước tốc độ gió mạnh và duy trì độ ẩm. Do đó, những điều kiện này có thể làm tăng sự phát triển của cây, sản xuất lúa gạo, bảo tồn đất và nước.

2.4 Cảnh quan là Hạ tầng và Hạ tầng là cảnh quan

Trước khi một khái niệm toàn diện về Hạ tầng cảnh quan được đưa ra bởi Pierre Belanger vào năm 2009 [16], khái niệm hạ tầng như cảnh quan ban đầu được đề xuất bởi Strang vào năm 1996 [17] và khái niệm cảnh quan như cơ sở hạ tầng đã được trình bày bởi Pierre Bélanger vào năm 2017[18]. Cảnh quan như vậy trở thành phương tiện để xây dựng và đưa ra các giải pháp tích hợp cơ sở hạ tầng với thiết kế khả thi có thể giải quyết nhiều vấn đề cấp bách mà nhiều thành phố trên khắp thế giới đang phải đối mặt. Theo Ying, Y. H. và công sự [19], nghiên cứu cảnh quan đô thị như một hệ thống các hành động năng động và như một hệ thống tương tác giữa không gian và quá trình, mở ra những quan điểm mới về can thiệp không gian liên ngành, phù hợp hơn với một xã hội không ngừng biến đổi và trong một môi trường hài hòa. Ở đây, cảnh quan không được coi là một cái gì đó ổn định, được bản địa hóa mà là sản phẩm của các hoạt động được cấu thành thông qua một mạng lưới truyền dẫn từ góc độ khu vực. Theo cách này, khái niệm về không gian của dòng chảy hoặc không gian dòng chảy có thể phục vụ như một cơ sở hạ tầng cảnh quan tiềm năng giải quyết các mạng lưới phức tạp của các mối quan hệ cấu thành nên cảnh quan đô thị.

Bảng 4: Thống kê các lý thuyết cảnh quan xem xét quá trình và mạng lưới sinh thái (Nguồn tác giả)

STT

Lý thuyết

Nội dung

Nguồn

2

Sinh thái cảnh quan Landscape Ecology  

mô hình Mảnh rời rạc- hành lang – ma trận trong phân tích cảnh quan.

Zev Naveh, Arthur S. Lieberman [20], Robert A. Francis, James D.A. Millington, George L.W. Perry, and Emily S. Minor, 2021  [14]

3

Phong thủy, Sơn thủy

Bao gồm ‘Sơn’ và ‘thủy’ biểu thị hai yếu tố chung trong tự nhiên, “núi và nước” và các thành phố Shan-Thủy được bao bọc và che chắn về mặt không gian; tách biệt nhưng vẫn kết nối với môi trường bên ngoài thông qua dòng chảy/tiếp cận chiến lược như sông, lạch. Do sự đa dạng về hình thái của núi và nước, con người có thể khai thác 'vay mượn cảnh' để tạo ra các điểm thuận lợi nhằm đánh giá cao thiên nhiên từ nhiều hướng khác nhau hoặc thậm chí tạo và sửa đổi sự sắp xếp cấu trúc giữa địa hình và nước để tạo ra cảnh quan dòng chảy và kết nối. Lý thuyết phong thủy từ lâu đã được sử dụng trong chính sách sử dụng đất và phục hồi cảnh quan ở các nước Đông Á (Choi, 1991; Whang, 1991).

 Tracing the Origin and Evolution of the Shan-Shui City Idea”, 2016  [21], Fengshui theory in urban landscape planning, Fengshui theory in urban landscape planning, 2006 [15]

4

Hạ tầng là cảnh quan

Các đô thị hiện đại đã tạo ra nhiều bối cảnh mới cho thiết kế cảnh quan đô thị

Infrastructure as Landscape, Gary L. Strang, 1996   [17]

5

Cảnh quan là hạ tầng

Cảnh quan đô thị cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ sở hạ tầng của đô thị đó. Vì vậy, hạ tầng đô thị cần coi cảnh quan là công cụ của mình.

Pierre Bélanger 2009 [16]

Mặc dù có những ví dụ thú vị về nghiên cứu liên quan đến thiết kế đa ngành và về bản thân cảnh quan và hạ tầng, nhưng tiềm năng của hạ tầng cảnh quan để thực hiện nhiệm vụ bổ sung là định hình cảnh quan đô thị phần lớn vẫn chưa được khai thác.

  1. Những đặc trưng và công cụ của Hạ tầng cảnh quan

3.1 Khái niệm Hạ tầng cảnh quan

Hạ tầng cảnh quan (Landscape infrastructure): theo Pierre Bélanger,  là sự giao thoa, kết hợp mang tính không gian các hệ thống công nghệ cứng (hạ tầng xám) và các quá trình lý sinh mềm (sự sinh trưởng/ cây xanh) bằng thiết kế [16], [18].

Hạ tầng cảnh quan là sự kết hợp hài hòa giữa cấu trúc sinh thái tự nhiên và hạ tầng đô thị, là quá trình phát triển tích hợp và đồng bộ của hệ sinh thái được thiết lập bởi hệ thống cây xanh, mặt nước và hạ tầng kỹ thuật đô thị (Định nghĩa của tác giả).

Hình 3: Giải thuyết về Hạ tầng cảnh quan (Nguồn tác giả)

Thiết lập và đồng bộ Hạ tầng cảnh quan trong quy hoạch, dựa trên tiềm năng cảnh quan sẵn có và lắp đặt/ bổ sung các công cụ/ thành phần còn thiếu đồng thời tích hợp với hạ tầng kỹ thuật đô thị sẽ phát huy được bản sắc cảnh quan đô thị và thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH). Hạ tầng cảnh quan đô thị đóng vai trò định hình hình thái đô thị vì vậy góp phần định hướng khung chiến lược phát triển bền vững không gian đô thị.

Hình 4: Hạ tầng cảnh quan trong mối quan hệ với quy hoạch đô thị và hình thái đô thị (Nguồn [22])

  • Hạ tầng cảnh quan phát huy thế mạnh của dòng chảy tự nhiên

Về mặt lý thuyết, hạ tầng cảnh quan dựa trên dòng chuyển động/ luồng, nhấn mạnh vào sự kết nối và lưu thông của các thành phần cảnh quan. Theo Steffen Nijhuis và cộng sự [23], các dòng chảy là các chuyển động/quy trình và cảnh quan là các thực thể không gian (ví dụ: lãnh thổ). May mắn thay, các thành phần của các hạ tầng cải thiện trước đó như những phần riêng biệt của cảnh quan cố gắng tái tạo thiên nhiên và đòi hỏi sự tổng hợp quy mô lớn.

Luồng/ Dòng chảy của nước là hệ thống thủy văn giữa các hệ sinh thái bao gồm nước mặt và nước ngầm. Cảnh quan không chỉ là các mô hình và cấu trúc hình thái không gian mà còn là những cách định cư độc đáo để thúc đẩy các hoạt động văn hóa, kinh tế và cộng đồng.

Thực tế, hình thái đô thị và cảnh quan đô thị được định hình cơ bản là do sự hòa nhập của đô thị vào bối cảnh thiên nhiên theo hướng tích cực. Do sự đa dạng về hình thái của núi và nước, con người có thể khai thác, cải thiện hoặc”vay mượn cảnh” để tạo ra các điểm quan sát để đánh giá thiên nhiên từ nhiều hướng khác nhau, hoặc thậm chí tạo ra và sửa đổi sự sắp xếp cấu trúc giữa địa hình và nước để ưu tiên dòng chảy/ luông cảnh quan và kết nối.

Ví dụ tại Huế, bài học lịch sử cho thấy rằng mặc dù có quy mô nhỏ, kinh đô cũ có vị thế quan trọng dựa trên sự phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên ở khoảng cách xa với sự cân nhắc kỹ lưỡng khi tích hợp thành phố vào thiên nhiên. Nói cách khác, thiên nhiên thống trị thành phố.

Bên cạnh đó, luồng/ dòng chảy của thực vật là dòng ảo nối liền núi và sông là một lớp phủ xanh di chuyển và đổi mới mượt mà ở các địa hình khác nhau để khắc họa hình ảnh của thành phố cũng như tạo ra vùng đệm tiềm năng giữa vùng hoang dã và khu định cư và tác động mạnh mẽ đến khu vực đô thị. Theo đó, các loại cây khác nhau cần được phân bổ phù hợp dựa trên địa hình và loại đất trong khi chức năng/loại của các khu vực xanh cần được quy hoạch cẩn thận để tạo thành một khảm cảnh quan đa dạng. Nó cũng định hướng dòng chảy cảnh quan trước khi thiết lập các loại hình sử dụng đất (Hình 5).

Hình 5: Luồng/ Dòng chảy của tự nhiên (Nguồn tác giả)

3.3 Hạ tầng cảnh quan điều chỉnh dòng của con người bằng Hạ tầng kỹ thuật đô thị

Hình 6: Hạ tầng cảnh quan thiết lập và duy trì luồng tự nhiên và con người (Nguồn tác giả)

Mặt khác, phát triển đô thị đòi hỏi hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ kết nối các khu vực chức năng khác nhau. Manh mối để thiết lập mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông về cơ bản là tạo ra một hệ thống kết nối mới thuận tiện hơn so với giao thông đường thủy, nhưng sự kết nối của các khu vực đô thị với thiên nhiên vẫn chưa được chú trọng. Hạ tầng giao thông theo quan điểm như một phiên bản dòng chảy là cần thiết để thiết lập một chu trình khép kín như chu trình nước. Ở khu vực đô thị, mạng lưới giao thông được tổ chức tương tự như hệ thống nước ở  giữa dòng để trì hoãn và giảm quá tải trên dòng chính. Ngoài ra, dòng chảy nhân tạo này chính là dòng sông ảo có thể thay thế dòng chảy thực của thủy văn để hình thành hệ thống liên kết với mạng lưới xanh để tiếp cận những vùng xa xôi thiếu các nguồn nước mặt (Hình 6).

3.4 Các công cụ của Hạ tầng cảnh quan định hình đô thị

Ở quy mô đô thị, công cụ của Hạ tầng cảnh quan  định hình đô thị dựa vào khả năng đảm bảo tổ chức tốt tính mạng lưới và luồng trong các bộ phận của nó thông qua 3 công cụ là Hạ tầng cảnh quan nước, Hạ tầng cảnh quan xanh và Hạ tầng kỹ thuật  đô thị.

Hạ tầng cảnh quan xanh: Trên thực tế, không gian xanh được phân bố đa dạng trên khắp khu vực và phản ánh bản sắc địa hình, địa chất, cây xanh đặc trưng và thói quen trải nghiệm không gian xanh của người bản địa. Hơn nữa, các khảm cảnh quan như mảng xanh, hành lang và ma trận có thể ngăn ngừa sự suy thoái sinh thái và thay đổi địa hình (do bê tông hóa và nâng cao nền móng tòa nhà). Ngoài ra, các cấu trúc không gian xanh có thể hoạt động như các cấu trúc tổ chức cho quy hoạch sử dụng đất như khu vực đô thị, khu dân cư, khu vực giải trí và khu bảo tồn... để ưu tiên cảnh quan đô thị và cải thiện khả năng hấp thụ và lưu trữ nước. Vì vậy, hạ tầng cảnh quan xanh hệ thống hóa thành một mạng lưới bền vững để không chỉ đi theo hệ thống mặt nước mà còn thâm nhập vào các khu vực chức năng đô thị để duy trì và phát triển các giá trị hệ sinh thái tự nhiên và mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và thẩm mỹ liên quan cho con người.

Hạ tầng cảnh quan xanh duy trì và phát triển các giá trị hệ sinh thái tự nhiên, tập hợp các mạng lưới không gian xanh được kết nối với nhau mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và thẩm mỹ cho con người. Cấu trúc không gian xanh có thể hoạt động như tổ chức cấu trúc cho các khu vực đô thị rộng lớn, cung cấp không gian cho phát triển thiên nhiên, giải trí, văn hóa, sản xuất lương thực và cung cấp năng lượng. Các hoạt động thiết kế điển hình bao gồm quy hoạch và thiết kế cấu trúc công viên đô thị, phát triển cảnh quan đô thị nông nghiệp, sinh thái đô thị và bảo vệ cảnh quan di sản.

Hạ tầng cảnh quan mặt nước: tập trung vào quản lý nước và các vùng ven sông, Hệ thống sông cần được nạo vét, khai thông và tạo ra nhiều hồ hoặc túi chứa nước dọc theo dòng chảy, và hình dạng dòng chảy cần được ưu tiên để tạo ra hình thái đô thị ven sông một cách liên tục. Nước chảy tràn cần được thu gom ở thượng nguồn trước khi tiếp cận thành phố để chảy vào hạ lưu trong khi đầm phá, các vùng đất ngập nước khác và ao hồ hoạt động như các kho chứa nước tạm thời trước khi dẫn nước ra biển. Ngoài ra, các hoạt động quan trọng khác là quy hoạch và thiết kế các công trình phòng chống lũ lụt đa chức năng, cải tạo cảnh quan sông, phát triển cảnh quan thủy sinh, cơ sở hạ tầng cảnh quan lưu trữ và cung cấp nước ngọt, xử lý nước thải và các biện pháp bảo vệ nước thích ứng. Do đó, có nhiều cơ hội để giảm áp lực điều tiết nước đô thị và tạo ra nhiều kiến ​​trúc bờ biển và cảnh quan ven sông đa dạng.

Hạ tầng kỹ thuật đô thị: tạo điều kiện thuận lợi cho các phương thức vận chuyển khác nhau (đường bộ, đường sắt và hàng không, cũng như các cảng và đường thủy), cung cấp năng lượng, xử lý chất thải và thông tin liên lạc. Các hệ thống giao thông đa phương thức này định hình các điều kiện để phát triển đô thị và tạo cơ hội cho các loại không gian công cộng mới. Hệ thống cơ sở hạ tầng sắp đặt các tiện ích và phương tiện đô thị để phối hợp các hoạt động đô thị và hơn nữa, loại luồng cảnh quan này có thể tích hợp linh hoạt các thành phần Hạ tầng cảnh quan xanh và Hạ tầng cảnh quan nước: Các yếu tố cảnh quan chức năng bao gồm các thành phần của Hạ tầng cải tiến (như cây cối, vườn mưa, rãnh thoát nước, ao hồ và đất ngập nước) và các thành phần hạ tầng xám (như tòa nhà, đường phố, công viên, đê, hệ thống thoát nước và hệ thống thủy lợi lớn) ở nhiều quy mô như quy mô nhỏ, quy mô khu phố và quy mô quy hoạch tổng thể. Trong quá trình tích hợp, chu trình nước và quá trình thanh lọc nước được quan tâm,  đồng thời đảm bảo rằng hình thái đô thị và các đặc điểm cảnh quan được tôn trọng và được vận hành bền vững hơn.

  1. Kết luận

Hạ tầng cảnh quan là xu hướng tiếp cận mới trên cơ sở kế thừa và khắc phục những hạn chế của sinh thái cảnh quan và các biện pháp cải tiến hạ tầng kỹ thuật thông thường trên cơ sở duy trì và phát huy tính liên tục, tính hệ thống và mạng lưới thống nhất của hệ thống cây xanh, mặt nước và hạ tầng kỹ thuật đô thị dựa trên đặc trưng thiên nhiên sẵn có cùng định hướng phát triển của đô thị; nhờ đó, những đặc trưng thiên nhiên của đô thị được gìn giữ, phát huy và kết hợp một cách có tính toán với hạ tầng kỹ thuật đô thị tạo tiền đề cho việc định hình hình thái đô thị trong tương lai.

  1. Tài liệu tham khảo
  2. Zhifeng L., Chunyang H., Jianguo W.. The Relationship between Habitat Loss and Fragmentation during Urbanization: An Empirical Evaluation from 16 World Cities. Plos One, 2016.
  3. Jennifer J. S., Janet F.. The effects of future urban development on habitat fragmentation in the Santa Monica Mountains. Landscape Ecology, Vol. 15, p713–730, 2000.
  4. Population Division, Department of Economic and Social Affairs. World Urbanization Prospects - The 2011 Revision, 2012.
  5. Vũ Trọng Lâm, Nguyễn Thị Diễm Hằng. Phát triển đô thị ở Việt Nam hướng tới mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tạp chí Cộng Sản. 2021; https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/- /asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/ content/phat-trien-do-thi-o-viet-nam-huong-toi-muc-tieu-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045#. Truy cập ngày 05/10/2024.
  6. Ayda A., Seyed A. M., Nasser B.. Urban Infrastructures and the Necessity of Changing Their Definition and Planning Landscape Infrastructure: a new concept for Urban Infrastructures in 21st Century. Bagh-E Nazar. 2017,Vol.13,No.43, 2017.
  7. CIRIA C697, London. The SuDS manual. 2007.
  8. M. I. Rodríguez, M. M. Cuevas, G. Martínez, B. Moreno. Planning criteria for Water Sensitive Urban Design. WIT Transactions on Ecology and the Environment , Vol 191, © 2014 WIT Press, doi:10.2495/SC141342.The Sustainable City IX, Vol. 2, p1579-1591, 2014.
  9. Martijn K., David J. R., Veljko P.. Are we planning blue-green infrastructure opportunistically or strategically? Insights from Sydney, Australia. Blue-Green Systems Vol 3 No 1, p 267-280, doi: 10.2166/bgs.2021.023,2021.
  10. Liveable Cities Lab. Strengthening Blue - Green infracstructure in our cities. 2016.
  11. United States Environmental Protection Agency • Office of Wetlands, Oceans, and Watersheds, 1200 Pennsylvania Avenue N, Washington, DC 20460. Benefits of Low Impact Development- How LID Can Protect Your Community’s Resources. EPA 841-N-12-003A, 2012.
  12. Mark A. B., Edward T. M.. Green Infrastructure: Smart Conservation for the 21st Century. Renewable Resources Journal, Volume 20, Number3, p12-17,2002
  13. Richard T. T. F.. Urban Ecology - Science of Cities, Published: Cambridge University Press, New York, ISBN 978-1-107-00700-0 (hardback) – ISBN 978-0-521-18824-1 (paperback). 2014.
  14. Nguyễn AnThịnh. Cơ sở sinh thái cảnh quan trong kiến trúc cảnh quan và quy hoạch sử dụng đất

bền vững (Ecological Landscape Architecture), Nxb Xây dựng. 2014.

  1. Robert A. F., James D.A. M., George L.W. P., Emily S. M.. The Routledge Handbook of Landscape Ecology. Published: Routledge 2 Park Square, Milton Park, Abingdon, Oxon OX14 4RN, 2022.
  2. Sun K. H., In J. S., Jianguo W.. Fengshui theory in urban landscape planning. Urban Ecosyst (2007) 10, p 221–237, 2007.
  3. Bélanger P. Landscape As Infrastructure. Landscape Journal, 28:1–09, pp 79-95, 2009.
  4. Strang G.L.. Infrastructure as Landscape. Places, 10(3), pp 8-15, 1996.
  5. Bélanger P. Landscape as infrastructure : A Base Primer. Routledge, 711 Third Avenue, New York, NY. 15, 2017.
  6. Ying Y. H., Gerdo A., Charles W., Julia C., Adriaan G., Matthew S., Alexander R.. Landscape infrastructure Case Studies by SWA, ISBN 978-3-0346-0593-9. Birkhauser GmbH, Germany, 2011.
  7. Zev N., Arthur S. L.. Landscape Ecology - Theory and Application, Second Edition, ISBN 978-0-387-94059-5, DOI 10.1007/978-1-4757-2331-1 Published: Springer-Verlag New York, Inc, 1994.
  8. Yizhao Yang JH. Tracing the Origin and Evolution of the Shan-Shui City Idea. Aticulo- Jounal of Urban research,14, https://doi.org/10.4000/articulo.3134, 2016.
  9. Quoc Thang Nguyen, Thu Trang Dam, Anh Tuan Pham. Landscape Infrastructure - An Original Implementation Approach of Green Infrastructure in Hue, Vietnam. Proceedings of the 7th International Conference on Geotechnics, Civil Engineering and Structures, CIGOS 2024, 4-5 April, Ho Chi Minh City, Vietnam CIGOS 2024, Lecture Notes in Civil Engineering, vol 482:p1498-1505, 2024.
  10. Nijhuis S., Jauslin D.. Urban landscape infrastructures - Designing operative landscape structures for the built environment. Research In Urbanism Series, 3(1), p 13-34. doi:10.7480/rius.3.874, 2015.

 

Nguyễn Quốc Thắng1, Phạm Anh Tuấn2

  1. Khoa Kiến trúc, Trường đại học Khoa học, Đại học Huế; Email: gvnqthang@husc.edu.vn. Nguyễn Quốc Thắng được tài trợ bởi Chương trình học bổng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong nước của Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF), mã số VINIF.2024.TS.100
  2. Bộ môn Kiến trúc Cảnh quan, Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, trường Đại học Xây dựng Hà Nội; Email: tuanpa@huce.edu.

Nguồn: Sách " Xu hướng kiến trúc cảnh quan Việt Nam"