Kiến trúc cảnh quan truyền thống ở Việt Nam: Tôn trọng tối đa, can thiệp tối thiểu vào hình thái tự nhiên
Tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan Cầu Long Biên – TP Hà Nội
Một hành trình – Triệu sắc Xanh: Chương trình “Chào K69 - Ngành Kiến trúc Cảnh quan”
Tre trong đời sống và xây dựng làng xã của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ
Tổng quan về áp dụng sinh thái cảnh quan vào công tác quy hoạch trên Thế giới
Ở Việt Nam, từ ngàn đời nay thiên nhiên trở thành cái nền cho kiến trúc, kiến trúc như những bông hoa tô điểm cho thiên nhiên đã thành một truyền thống tạo dựng kiến trúc cảnh quan từ thủa ông cha. “Thiên nhiên bao giờ cũng đẹp mà kiến trúc thì không phải bao giờ cũng thế. Thiên nhiên luôn chứa đựng trong nó sự đa dạng phong phú và khả năng sáng tạo đến vô cùng, vô tận… Trong khi tất cả những gì Kiến trúc làm được vẫn chỉ là những ngôi nhà vuông vắn, ngay ngắn… Ngay cả lăng tẩm, đền đài kỳ vĩ lớn lao và phức tạp nhất cũng không thể sánh được với vẻ tinh xảo đa dạng và kỳ bí mà thiên nhiên ban tặng. Ý thức được điều này, con người đã sớm biết cách sử dụng thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên để tô điểm thêm cho các sáng tạo nghệ thuật của mình’’[1].
Điều này có thể thấy rõ nét nhất ở những cung điện, lăng tẩm ở Huế, hay còn sót lại ở diện mạo nhiều TP khác. Ở Huế, sự khéo léo thông minh về tạo dựng cảnh quan của ông cha đã tạo nên nét đẹp thơ mộng, lãng du với “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo’’, mỗi góc phố, mỗi cung đường đều chứa đầy sức cuốn hút. Một phần quan trọng chính là nhờ cái nhân văn, nhân bản sâu sắc của tâm hồn Việt. Có thể thấy ở lăng Tự Đức là một mô thức hoàn hảo, một bài thơ về cách làm Kiến trúc cảnh quan truyền thống. Đến cả người Pháp khi lựa chọn phương án Kiến trúc cầu Tràng Tiền, cũng đã rất ấn tượng với cảnh sắc nơi đây, vậy nên mô hình mà họ chọn cho đến ngày nay, sau hàng trăm năm cũng không hề phai lạc về tính gắn kết hữu cơ đầy chất thơ với cảnh quan. “Những ngôi đình, ngôi chùa của miền Bắc cũng vậy, cứ như những cây cổ thụ mọc lên từ sườn núi, mé sông. Nếu không có cái thế đó, thì họ cũng biết tạo nên một mặt nước phía trước, một bờ đất, một rặng tre phía sau, một cây cổ thụ trùm bóng mát lên khoảnh sân góc mái. Kiến trúc như một phần của thiên nhiên’’[2]
Tổ chức cảnh quan ở môi trường ở dân gian – Tôn trọng tuyệt đối địa hình và cảnh quan thiên nhiên
Loại hình này chiếm một tỷ lệ áp đảo trong kiến trúc truyền thống của Việt Nam. Đối với công trình do người Việt tạo dựng thì điều này gần như là tâm niệm hiển nhiên. Có thể thấy điều này biểu hiện rất rõ ở tổ chức không gian mọi làng quê nước ta từ Bắc chí Nam. Ở miền núi phía Bắc, đó là những bản làng cheo leo trên sườn núi hay trong thung lũng, có sự gắn kết vô cùng hài hoà với cảnh sắc địa phương. Dường như mọi thung đồi, khe suối ở đây đều đựơc tôn trọng, giữ gìn tuyệt đối. Những ngôi nhà ở của đồng bào chỉ như những chấm phá điểm tô thêm cho khung cảnh hữu tình, với hình hài thật tao nhã, vật liệu bản địa gắn kết. Vào trong từng khuôn viên, từ thực thể ngôi nhà, đến sân, vườn, ao, tất cả đều bắt nguồn cải dựng khéo léo từ thiên nhiên. Đặc biệt là bản thân những khuôn viên đó như là sự kết phát tự nhiên của thiên nhiên. Một điều thú vị nữa là, sự kết nối thành chuỗi, khóm của nhà ở và các công trình cộng đồng đều rất rõ nét ở mỗi làng xã. Thêm vào đó, những con đường quanh co uốn lượn mòn theo năm tháng ăn nhập với tầng bậc địa hình, thật sự đã góp nên những hoạ đồ thiên nhiên quyến rũ.
Với khu vực đồng bằng miền Bắc, những ý niệm đó của ông cha cũng không hề bị mai một. Có ai đã ở, đã đến những làng quê ven sườn đồi, phía trước là cánh đồng mênh mông trồng lúa ngô khoai, hay có thể cả thôn làng nằm giữa vùng đồng bằng bát ngát phẳng. Những ngôi nhà, khuôn viên ở đó như những bài thơ, tô điểm chung cho khung cảnh thanh bình no ấm. Những rặng tre, bờ xoan, vườn mít chuối, hàng cau… là sự bày sắp cảnh quan thật tự nhiên của người “KTS – chủ nhà”, để lại vô vàn những điều kỳ thú sâu xa về bản sắc. Khung cảnh làng, liên làng với cây đa, giếng nước, sân đình, cổng làng, hoa gạo thắm đỏ… hoà quyện với nhau thành những bức tranh tuyệt sắc, đến mức không thể phân rõ đâu là thiên tạo, đâu là nhân tạo. Ngoài ra còn có những loại công trình công cộng rất đặc biệt, sự đóng góp hình hài và cách tổ chức không gian cảnh quan của nó làm cho mỗi ngôi làng không còn đơn điệu, mà hết sức phong phú hài hoà – Đó là đình, chùa, miếu mạo. Trong kiến trúc truyền thống, những dạng công trình này được xây dựng thường đồ sộ hơn nhà ở, và bao giờ cũng được chọn trên mảnh đất trống, có độ cao đã định sẵn, tôn trọng hoàn toàn, giữ nguyên những gì tự nhiên đã có ở xung quanh. Mạng lưới hạ tầng giao thông ở đây cũng phát triển tự nhiên, mềm mại theo địa hình, kết hợp cùng khuôn viên công trình tôn tạo thiên nhiên một cách tối đa.
Ở miền Nam, đi suốt một dải từ Đà Nẵng đến Mũi Cà Mau chúng ta đều gặp hầu hết làng quê có tâm niệm tạo lập cảnh quan theo hướng như vậy. Tất nhiên, cái tài tình, thông tỏ của ông cha ta là ở chỗ, mỗi vùng miền, làng quê đều mang những sắc thái riêng, phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng. Vùng Miền Trung và Nam Trung bộ, những ngôi làng được tạo lập rất khoáng đạt, nhiều cây xanh, hình thái khuôn viên không có giới hạn rõ ràng, ngôi nhà đơn giản hơn phía Bắc, làm từ vật liệu tự nhiên là chính. Cây xanh cũng hữu dụng hơn để hái hoa, ăn quả và thường không cao lớn như phía Bắc. Tất cả tạo ra khung cảnh dung hợp với lối sống.
Ở miền Tây Nam bộ với đặc trưng là vùng sông nước, các thôn ấp thường ít nóc nhà hơn. Khung cảnh ở vùng này thường được tạo lập rất phóng khoáng, không chia cách giới hạn, như cách sống hào hiệp nắng gió, tự do của đồng bào. Khuôn viên mỗi ngôi nhà hoà nhập hoàn toàn vào không gian chung, nhiều khi đến không xác định được đâu là giới hạn. Kiến trúc cảnh quan ở những vùng này gần gũi, đan xen với sông nước bao quanh, mênh mang, chứ không tĩnh tại bến nước sân đình như phía Bắc. Những khuôn làng, chợ nổi dập đềnh trên sông, cùng cánh lục bình tao nên một cảnh quan tự nhiên, đầy bản sắc cuốn hút.
Vùng Tây nguyên xanh, giữa khung cảnh đại ngàn xanh mướt, những buôn làng cũng thật đặc sắc với những cảnh quan gắn kết với tự nhiên đằm thắm. Những ngôi nhà dài như nét mày kẻ ngang đồi, những ngôi nhà rông cao vút như nhấn mạnh về sức sống của con người giữa thiên nhiên hùng vĩ. Lạ thay, tất cả đều hoà quyện với cảnh sắc thiên nhiên thật êm ái, uyển chuyển. Không hề thấy sự phá phách hay “nhảy dù’’ thô bạo ở đây. Những nghệ sĩ sáng tạo cảnh quan dân gian Gia rai, Ba na, Ê đê, Mnông, Cơ ho, Xơ đăng… đã thành công trong việc tôn trọng tối đa thiên nhiên, kết hợp với sáng tạo linh hoạt, vận ứng, phù hợp với khung cảnh đại ngàn. Cách tổ chức khuôn viên của buôn làng cũng mang rất nhiều bản sắc riêng, nhưng hoàn toàn không làm suy suyển khung cảnh thiên nhiên nơi họ ngụ cư. Đặc biệt, Tây nguyên còn có dạng cảnh quan cho người đã khuất là nhà mồ, cũng rất nghệ thuật và ấn tượng. Những loại công trình này, không hề làm những khu rừng chứa đựng nó bị mai một chất nguyên bản. Rẫy của người Tây nguyên cũng đóng góp tích cực trong tạo lập cảnh quan cho vùng “đồng bằng’’ trên cao này.
Tổ chức cảnh quan truyền thống tại các tổ hợp công cộng, thành quách dinh thự, lăng tẩm
Đối với các công trình, cụm công trình công cộng truyền thống, kiến trúc cảnh quan tuy hầu hết được thiết kế xây dựng, với giải pháp nhân tạo kết hợp, có khi chiếm tỷ lệ nhiều hơn tự nhiên, quy mô thường khá lớn. Tuy nhiên, quan niệm tạo lập cũng tuân thủ nguyên tắc giữ lại tối đa khung cảnh thiên nhiên, đặc biệt là cây xanh và địa hình. Có thể thấy điều này rõ ở các cụm chùa, đền biệt lập ở mọi vùng miền toàn quốc. Ở đó, những công trình, từ ngôi đình đền miếu, đến các loại lăng, tháp… được quy hoạch khéo léo trên những vùng đất trống, ít cây cối, địa hình thuận thế, dựa trên một sự thoả hiệp linh hoạt giữa phong thuỷ với điều kiện thực tế. Đồng thời, phần cảnh quan ngoài công trình hướng tới khai thác tối đa hiện trạng có tôn tạo, phù hợp ý đồ người thiết kế và phong tục tín ngưỡng, như hồ thì nắn chỉnh lại hồ sẵn có, núi thì gọt dũa thêm núi hiện hữu… Do đó các công trình này khi xây dựng xong, vẫn mang được cảm giác truyền cảm quen thuộc, hầu như không bị xung đột phong cảnh tự nhiên.
Với dạng công trình cung điện, dinh thự, lăng tẩm, đây là loại công trình thường có quy mô đồ sộ nhất trong các công trình truyền thống. Việc tạo lập cảnh quan ở đó gắn liền với xây dựng các tổ hợp công trình. Thoạt tiên, việc nghiên cứu kỹ địa hình địa mạo để giữ nguyên cấu trúc tự nhiên luôn được đặt ra. Đó chính là thế khu đất, nói theo cách của thầy địa lý. Trong quá trình xây dựng, có thể toàn khu đều bị đụng chạm vào, tạm biến đổi hình thái, nhưng khi hoàn thành, việc trả lại nguyên bản hầu như luôn được đặt ra và thực hiện. Như lăng tẩm ở kinh đô Huế, hay dinh vua Mèo Vương Chí Sình ở Quản Bạ Hà Giang là những ví dụ. Tất nhiên, việc biến đổi một phần khung cảnh ở các loại công trình này là điều không tránh khỏi, nhưng cảnh quan được giữ lai chính xác hồn cốt cơ bản, không hề thay đổi. Việc bổ sung này đều mang tính tôn vinh chứ không phải bác bỏ, như hàng sa mu trồng ở Dinh vua Mèo là mang từ nơi khác đến, nhưng làm cho cảnh quan toàn khu có đặt dinh thự trở nên hùng vĩ, đẹp đẽ hơn; hay bố cục hoàn mỹ của lăng tẩm Huế mỗi vị trí một khác cho thấy rõ điều đó. Ông cha ta còn có một giải pháp “linh hoạt cảnh quan” rất hay nữa là bố trí cây trong chậu, hồ cá nhân tạo, non bộ tô dựng.. cách làm này hoàn toàn không có ở những cảnh quan nổi tiếng châu Âu.
Tạo lập cảnh quan đô thị truyền thống
Đô thị Việt Nam có thể xác định là đã hình thành đã khá lâu, “Nhưng bắt đầu được định danh là TP thì từ thời Pháp thuộc thế kỷ 19, với số lượng 21. Có 3 TP cấp 1 là Hà Nội, Sài Gòn và Hải Phòng; 3 TP cấp 2 là Chợ Lớn, Đà Nẵng, Nam Định; 16 TP cấp 3 là Đà Lạt, Thái Nguyên, Hải Dương, Vinh-Bến Thuỷ, Bạc Liêu, Cần Thơ, Mỹ Tho, Rạch GIá, Thái Bình, Thanh Hoá, Huế, Quy Nhơn, Phan Thiết, cập Xanh Giác (nay là Vũng Tàu), Long Xuyên, Bắc Ninh, Đồng Hới”[3]. Đến thời kỳ cách mạng, năm 70 của thế kỷ trước, nước ta vẫn mới có 3 TP trực thuộc trung ương, 11 TP trực thuộc tỉnh, chưa đến trăm thị trấn thị tứ – “Nhưng đến tháng 7/2021, số lượng đô thị Việt Nam đã đạt tới gần 850. Với 2 đô thị loại đặc biệt, 22 đô thị loại I, 32 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 88 đô thị loại IV, gần 700 đô thị loại V. Với tỷ lệ đô thị hoá khoảng 40%. Đóng góp GDP của khu vực đô thị đến hơn 70%”[4]. Dân cư tại các đô thị thực tế đã chiếm hơn 50 % số dân cả nước, kể cả định cư và vãng lai. Tốc đô đô thị hoá nhanh và mạnh đang diễn ra theo từng năm. Như vậy, thực chất việc quy hoạch xây dựng đô thị, trong đó có thiết kế xây dựng kiến trúc cảnh quan, đóng vai trò quyết định sự thành bại của phát triển về mặt đầu tư xây dựng của một quốc gia, đồng thời cũng đóng vai trò quyết định cho hội nhập toàn cầu. Khi thiết kế những không gian quy hoạch xây dựng đô thị truyền thống, ông cha ta từ khởi phát đã dựa vào sự hội tụ hợp lý cao nhất của diện mạo và điều kiện tự nhiên từng vùng, miền để lựa chọn. Hà Nội, nơi thế núi thế sông sáng láng, toàn mỹ đã được chọn làm kinh đô trong hầu hết chiều dài lịch sử. Sài Gòn – TPHCM mới có lịch sử đô thị hơn 300 năm, nhưng thực chất đã trở thành nơi quần hội sầm uất của miền Nam hàng trăm năm trước đó. Hải Phòng, cửa ngõ giao thương quốc tế quan trọng cũng đã được lựa chọn ngay từ đầu với tầm nhìn như vậy.
Kiến trúc cảnh quan ở các đô thị này, đều được tạo lập bắt đầu từ kinh nghiệm truyền đời của ông cha ta về cách chọn vị trí, xây dựng trên cơ sở tôn trọng phong thuỷ, địa hình, địa mạo, ít can thiệp nhất vào khung cảnh tự nhiên. Việc lựa chọn từng khu đất phù hợp với chức năng tương ứng trong đô thị cũng thể hiện một tầm nhìn thông tỏ uyên thâm của ông cha. Những sự lựa chọn đó, cho đến giờ vẫn nguyên giá trị về sự thích dụng, tươi mới và phù hợp cảnh quan.
Trong những “tiểu khu vực’’, việc sắp đặt và phối kết cảnh quan lại thể hiện càng rõ sự khéo léo. Lựa chọn và xây dựng các cửa ô Hà Nội biểu hiện rõ cho những ý tưởng này. Hay trung tâm Sài gòn – TPHCM chẳng hạn, càng phát triển càng thấy sự lựa chọn này thật xác đáng. Nhân đây cũng xin nói thêm, TPHCM một thời kỳ vọng Thủ Thiêm là trung tâm mới, nhưng sau khi nghiên cứu sâu kỹ những lý lẽ ông cha để lại, thời tạo lập và phát triển TP, Thủ Thiêm trở về đúng vị trí là trung tâm phụ trợ cho cực chính bên này sông Sài Gòn. Chính những sâu sắc về kiến trúc cảnh quan, gắn kết hoà quyện và tôn trọng thiên nhiên đã tạo những nét đặc trưng cho từng đô thị : Hà Nội là TP của những mặt hồ lung linh; Sài Gòn – TPHCM là TP của sông nước kênh rạch; Hải Phòng là TP của cảng sông, cảng biển; Đà Lạt là TP của ngàn thông, ngàn hoa…
Khi mỗi đô thị đã hình thành hàng triệu triệu công trình tích đọng lại theo thời gian, đang và sẽ có hàng vạn vạn công trình mới thay thế cái cũ – Nếu không có một tinh thần cốt lõi về ý niệm vận dụng cảnh quan làm chỗ dựa, đô thị sẽ trở thành một mớ hỗn độn không bản sắc, điều này hoàn toàn có thể xảy ra cho mọi TP lớn nhỏ. Nếu cứ vậy, sau đó chúng ta còn gì của hồn cốt linh, bản sắc riêng? – “Kiến trúc cảnh quan là cái gạch nối giữa những gì do con người tạo nên với những cái do thiên nhiên tạo nên’’. Mỗi đô thị với tinh thần nơi chốn của mình, cần tạo lập cái riêng trên tinh thần tôn trọng giữ gìn thiên nhiên vùng đất. “Cái riêng đó xuất phát từ truyền thống, bản sắc vốn có, mà ta phải biết phát huy bằng cách hiện đại hoá nó lên và cái riêng đó cũng có thể có từ sự tìm tòi những cái mới lạ, tạo nên từ tâm hồn, tính cách người Việt Nam”[5].
Ở các đô thị nhỏ hơn, việc tận dụng và khai thác tối đa cảnh quan thiên nhiên, đã được xác định là một yếu tố căn bản để phát triển bền vững. Những đô thị xuất phát từ địa hình đồi núi như vùng Tây Bắc, Việt Bắc, thượng nguồn miền Trung, vùng Tây Nguyên, việc tận dụng địa hình tự nhiên đồi núi để tạo lập những hình thái cảnh quan đặc sắc đã được thực hiện ngay từ khi đô thị hình thành. Một số chương trình “sắp đặt lại giang sơn’’ được ngăn chặn kịp thời. Cảnh quan kiến trúc ở các đô thị này từ truyền thống đến hiện tại căn bản là giữ được sự đặc sắc cội nguồn. Tất nhiên ở đó, dù đều xuất phát từ đồi núi, sông suối, chênh cao… nhưng không đô thị nào bị trùng lặp cảnh quan với đô thị khác. Chỉ tiếc là kiến trúc công trình tại các đô thị này hiện nay đều bị xoá nhoà tính địa phương khá rõ. Do đó, hình hài cảnh quan không gian kiến trúc bị đồng hoá lẫn nhau. Đối với vùng miền Tây Nam Bộ, cảnh quan đô thị gắn chặt với sông nước, cũng được ông cha ta luôn xem là thế mạnh để bảo tồn, gìn giữ hướng phát triển đã có từ ngàn đời. Vấn đề sinh thái đa dạng và thú vị cũng được tiếp biến trên cơ sở nghiên cứu thận trọng sâu kỹ. Quả thực, “Thiết kế đô thị có thể định nghĩa như là một qúa trình tạo lập không gian đô thị, một nghệ thuật tạo dựng các nơi chốn khác nhau trong TP… Tập trung vào việc thể hiện các địa điểm quy hoạch về mặt hình thể. Dáng vẻ của các công trình, hay quần thể các công trình cũng như không gian và cảnh quan xung quanh’’[6]. Truyền thống Việt Nam về hình thành và phát triển, xây dựng đô thị có thể đi đến đúc kết: “Xây dựng đô thị dù lớn, dù nhỏ không có nghĩa là tàn phá, cải tạo, ép buộc thiên nhiên – Đô thị và thiên nhiên phải luôn cùng song song tồn tại và bổ sung cho nhau vì mục đích phục vụ tốt nhất con người’’[7].
Những nguyên tắc có thể rút ra từ cách tạo lập Kiến trúc cảnh quan truyền thống
1. Đối với các vùng nông thôn:
- Lựa chọn kỹ lưỡng vị trí xây dựng công trình để đảm bảo tiện nghi sử dụng gắn liền với giữ vững khung cảnh quan chung;
- Tôn trọng tối đa cảnh quan tự nhiên khi xây dựng công trình;
- Tái lập toàn thể hoặc những bộ phận cảnh quan phải đảm bảo: Ưu tiên khôi phục tối đa cảnh quan nguyên thuỷ; phần tạo dựng bổ sung phải hoà nhập, gắn kết với cảnh quan hiện hữu;
- Tạo lập cảnh quan mới theo yêu cầu sử dụng: Cần phải nghiên cứu địa hình địa mạo để cảnh quan mới không được lấn át, làm ảnh hưởng xấu đến khung cảnh quan chung;
- Tăng cường sử dụng giải pháp cảnh quan nhân tạo, có thể thay thế, di chuyển, điều chỉnh bố cục theo công năng, có thể thay đổi theo mùa.
2. Đối với các đô thị:
- Không được phá vỡ toàn diện hay từng bộ phận cảnh quan tự nhiên, nếu không thực sự bắt buộc. nếu có sự phá vỡ nào dó thật cần thiết trong quá trình xây dựng thì cần kèm theo giải pháp phục hồi tối đa sau xây dựng;
- Cần tìm cách nghiên cứu để tái tạo những cảnh quan đã mất, nhất là các cảnh quan có giá trị đặc thù, quan trọng, tạo nên tính riêng cho đô thị;
- Việc giải toả, thay thế phải chú trọng đến sự khả thi của dân sinh. Sự thay thế phải xem xét tính toán phù hợp, không được phá vỡ cảnh quan và ý nghĩa lịch sử văn hoá truyền thống khu vực. Đảm bảo cảnh quan sau thay thế có thể tốt hơn;
- Việc xây dựng những kiến trúc mới cần chú trọng khai thác bản sắc văn hoá vùng miền. Kiến trúc mới phải hài hoà với kiến trúc cũ và định hình không gian hiện hữu, không lấn át, làm hỏng không gian và các kiến trúc hiện có;
- Với các đô thị lớn, cần quan niệm các trung tâm khu vực đô thị không phụ thuộc vào địa giới hành chính, mà chủ yếu là phục vụ cho các chức năng và vùng ảnh hưởng;
- Tại các đô thị lớn, việc tạo lập kiến trúc cảnh quan cần phải có xác định trọng tâm, phân theo tầng bậc. nhưng không cần có giới hạn rõ ràng, mà phải đạt được yêu cầu liên kết trong cảm nhận thị giác;
- Các cảnh quan riêng tạo lập cho từng công trình, cụm công trình có thể mang tính chủ đề, phong cách riêng, nhưng phải hoà nhập được với cảnh quan chung. Không phá vỡ, làm ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến cảnh quan chung;
- Tại những không gian có giới hạn cụ thể, là các điểm nhấn của TP, nghệ thuật công cộng – “Là các tác phẩm nghệ thuật Kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc… được các nhà kiến trúc, hoạ sĩ và nhà thiết kế chuyên ngành khác… sáng tác, đem đặt để hình thành bố cục bằng các ngôn ngữ: dạng khối, đường nét, màu sắc… biểu đạt nội dung lịch sử, văn hoá, xã hội, phản ánh cuộc sống của con người, nhằm kiến tạo thẩm mỹ không gian đô thị, giáo dục cảm nhận cho cộng đồng”[8]. Cvhính là hạt nhân quyết định bộ mặt Kiến trúc cảnh quan.
Một vài nhận xét về thiết kế Kiến trúc cảnh quan của Việt nam trong thời gian vừa qua
- Các cảnh quan tôn trọng thiên nhiên được ưu tiên ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Đây là một thành công của kiến trúc cảnh quan;
- Các không gian tái tạo ở những khu vực đa dạng, ở các quy mô khác nhau đã đạt nhiều kết quả khả thi, góp phần giữ gìn bản sắc vùng miền, TP một cách hữu hiệu;
- Các kiến trúc cảnh quan sáng tạo mới dạng kế thừa tiếp biến hình thái dân gian, kết hợp giữ gìn bản sắc đã đạt rất nhiều thành công;
- Các không gian cảnh quan thiết kế, xây dựng mới, xu hướng hiện đại đã có nhiều đột phá sáng tạo. Nhiều không gian cảnh quan khi hình thành góp phần rất trọng lượng để tăng tiện nghi sống, giá trị tài sản, nâng cao sức khoẻ, độ an toàn… thu hút khách hang một cách bền vững;
- Các không gian cảnh quan chú trọng đến đa diện công năng, kể cả những công năng dẫn dắt đã phát huy được nhiều hiệu quả;
Về nhược điểm, có thể thấy còn khá nhiều những cảnh quan can thiệp thô bạo vào địa hình, khung cảnh tự nhiên; nhiều cảnh quan xa hoa lộng lẫy tốn kém không cần thiết; nhiều cảnh quan lại quá sơ sài, không ăn nhập tôn tạo vẻ đẹp cho không gian chung, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực. Còn có những loại cảnh quan phù phiếm, trưởng giả, hoặc sao chép ngoại lai không phù hợp với văn hoá, văn minh Việt Nam; những cảnh quan đặt lạc vị trí; bản sắc riêng về vùng miền cho một tỷ lệ không nhỏ cảnh quan chưa thể hiện rõ; vai trò nhận diện của cảnh quan còn rất mờ nhạt…
Thay lời kết
Có thể tạm tóm lược, thiết kế cảnh quan cùng với thiết kế quy hoạch, thiết kế công trình, thiết kế nội thất, là những trụ cột chính của công tác thiết kế kiến trúc xây dựng. Với các đô thị, thiết kế cảnh quan càng có tầm quan trọng, vì đó là không gian kết nối các thực thể kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật và các loại thực thể khác để cấu trúc thành không gian đô thị. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, thì mảng thiết kế này chưa được phân định và để ý. Nhưng trong thực tế, từ truyền thống tạo dựng nơi cư trú, hoạt động lao động và nghỉ ngơi, ông cha ta đã liên tục “làm thiết kế” cảnh quan, coi đó là một mắt xích hiển nhiên, gắn kết với dựng xây công trình nhà cửa. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng những cơ ngơi mang đầy chất sinh thái và nhân văn, góp phần vô cùng hữu ích cho đời sống con người phấn chấn thăng hoa, đảm bảo sức khoẻ, chu toàn hạnh phúc và an toàn trong sinh sôi, bảo tồn nòi giống. Việc tiếp biến chặng đường ông cha tạo lập kiến trúc cảnh quan là một nhiệm vụ rất hệ trọng và cần thiết cho thế hệ KTS và cộng đồng hôm nay, trong nhiệm vụ xây dựng nền Kiến trúc hiện đại, đậm đà bản sắc.
Khi biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh đang hiện hữu và ngày càng khốc liệt, sự hội nhập với những hoạch định từ “tương lai thuộc về châu Á”[9] càng tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho người làm nghề. Phát triển Kiến trúc cảnh quan thật sự quan trọng, có tương lai, đầy sáng tạo, ổn định và bền vững. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, các vấn đề được nêu mới chỉ dừng ở mức rất khái lược. Hi vọng sắp tới, khi ngành Kiến trúc Cảnh quan Việt Nam được đặt đúng vị trí, sự phát triển đột phá, với nhiều kết quả ngày càng khả thi là một điều hiển nhiên. Sự phát triển đó, cũng cần song hành cả mặt nghiên cứu lý luận và triển khai thực tiễn.
TS.KTS Phan Đăng Sơn
Chủ tịch hội KTS Việt Nam – Tổng biên tập Tạp chí Kiến trúc
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2021)